Mầm Mống Thần Linh

Nơi Phật Giáo: 

 

P

hật nói:

Bao lâu con người c̣n mắc trong lưới mê vọng sẽ chẳng sao mà được thanh tịnh, mặc dầu khảo cứu thánh thư, cúng dường thần phật, ăn chay nằm đất, thức đêm thức hôm, hay tŕ tụng kinh kệ. Bố thí cho kẻ tu hành, hành hạ xác thân, lễ bái cúng quải không làm cho thanh tịnh được những kẻ mà ḷng c̣n đầy ham muốn vị kỷ. Chẳng phải ăn thịt cá mà con người trở nên ô trọc, nhưng ô trọc v́ say sưa ương bướng, cố chấp, gian lận, ghen tuông, kiêu căng, tự thị, khinh khi hay có đầy ác ư (xem Présence du Bouddhisme, p. 245).

 

Phật cho rằng sống trong biến thiên, chất chưởng tương đối dĩ nhiên sẽ phải lệ thuộc, sẽ không thể nào được hạnh phúc bền bỉ, như vậy, muốn được tự do, hạnh phúc trường tồn, tất nhiên phải t́m cho ra tuyệt đối, hằng cửu, bất biến.

 

Phật nói:

‘Hỡi các ti khưu, có một thực trạng bất sinh, bất thành, bất ỷ, bất tạp, v́ nếu không có thực trạng ấy th́ làm sao giải thoát được cái sinh, thành, ỷ, tạp. Nhưng v́ có thực trạng ấy, nên có đường thoát cho cái sinh, thành, ỷ, tạp (Udana p. 129, Colombo 1929, Présence du Bouddhisme, p. 268)...

 

Bản thể tuyệt đối toàn chân, không hư vọng đó, Phật giáo không gọi bằng Trời, bằng Thượng đế, mà thường gọi là Chân Như.

 

Chân Như chính là căn nguyên sinh vạn pháp, là Viên Măn, là Toàn thể. Chân Như ấy có muôn vàn danh hiệu, nhưng thông dụng nhất là những danh từ như Phật tính, Chân tâm, Như Lai tạng, Thực tướng, Pháp tướng, Bản lai diện mục, hoặc Hư vô, Tịch diệt v.v.

 

Nó tương ứng với danh từ Thái Cực, Thiên Lư trong Khổng giáo; Cốc thần hay Đạo trong Lăo giáo, Brahma trong Bà La Môn giáo, Logos trong triết học Âu Châu.

 

Như vậy vũ trụ này có hai phương diện:

 

1.      Một phương diện vĩnh cửu, bất biến, trường tồn mà Phật giáo gọi là Chân tâm hay Chân Như hay Bản Lai diện mục v.v.

 

2.      Một phương diện biến thiên, lệ thuộc không gian, thời gian, có sinh, có diệt, gọi là Vạn hữu, hay Vạn tượng, hay thế giới hiện tượng.

Trong con người, bản thể vĩnh cửu ấy được gọi là Chân tâm, c̣n các hiện tượng tâm tư biến ảo được gọi là vọng tâm.

 

Chân Như trường tồn, bất sinh bất diệt, tuyệt đối vừa là nguyên nhân vừa là cứu cánh, vừa là thực tại vừa là lư tưởng, lại cũng là thanh tịnh, là Niết bàn.

 

C̣n Vạn pháp th́ vô thường, vô ngă, bác tạp biến thiên, uế trược, luân hồi.

 

Thực ra phân tách vũ trụ thành hai phần Chân Như và Vạn Pháp, đối với Phật giáo chỉ là một sự phân tách giả tạo. Sự phân tách ấy cốt là để nh́n thấy thực tế cho thấu đáo, để biết đường phản bản qui nguyên, hợp nhất cùng tuyệt đối. Nhưng khi đă thấu đáo, khi đă giác ngộ th́ ngược lại, phải có cái nh́n bao quát, phối hợp, v́ Chân Như Bản Thể hằng lồng trong vạn pháp, trong hiện tượng; vĩnh cửu luôn ẩn áo dưới các lớp biến thiên cho nên không tách rời Chân Như là Bản thể với các Hiện tượng là ứng dụng.

 

Khi có cái nh́n viên dung ấy th́ bản thể và hiện tượng sẽ không c̣n phân ly, chống đối nhau nữa. Chân Như sinh xuất ra vạn tượng, vạn tượng qui hướng về Chân Như, một trong một ngoài, một ẩn một hiện, tương dung, tương ứng, ḥa hợp vô cùng. Hiện tượng sẽ đóng vai hỗ trợ, phụ bật bên ngoài. Chân Như bản thể sẽ chủ tŕ sinh hóa bên trong: thế là ‘Lư sự vô ngại’. Và dưới mắt người có cái nh́n bao quát th́ vũ trụ và nhân quần sẽ trở thành những vần thơ, điệu nhạc biến ảo khôn cùng, càng biến ảo lại càng tăng vẻ thần kỳ, linh hoạt; vạn hữu sẽ trở thành những âm thanh huyền ảo, những kỷ vật hữu t́nh nhắc nhớ tới bản thể tuyệt đối, nhắc nhớ tới sứ mạng cao cả của con ngươêi là tiến tới đại trí, đại giác để trở về với tuyệt đối.

 

Con người giác ngộ với cái nh́n viên dung sẽ thấy sự hiệp ḥa giữa mọi mâu thuẫn, sẽ thấu đáo ư nghĩa vy diệu của hoàn vũ và của cuộc đời; ở đâu đối với họ cũng là Niết bàn, v́ Niết bàn đă ở ngay trong tâm hồn họ. Thế mới hay ‘sinh tử Niết bàn’, ‘phiền năo tức Bồ Đề’.

 

Hiểu chân tâm và vọng tâm, Bản thể và Hiện tượng ta sẽ hiểu đâu là bờ mê, đâu là bến giác đối với Phật giáo.

 

Bờ mê là cơi phù sinh ảo ảnh, là h́nh thức sắc tướng, là công dụng, là những giao động của tinh thần và vật chất bên ngoài.

 

Bến giác tức là bến bờ tĩnh lăng của Bản thể vô biên, nơi mà tục lụy hồng trần không sao lọt vào được.

 

Con người chỉ được giác ngộ, chỉ trở nên toàn giác khi lĩnh hội được Bản thể vô biên, được Chân ngă hằng cửu, khi khế hợp được với Chân Như tuyệt đối, không c̣n những cái nh́n thiển cận, thiên lệch hẹp ḥi, không c̣n tư t́nh, tư dục, khi đă rũ bỏ được hết những tạp thù thác loạn.

 

Con người sẽ lạc lơng bến mê, bao lâu chưa nhận ra được Toàn thể vô biên, bao lâu c̣n chạy theo những cảnh phù du biến thiên, hư ảo, c̣n chạy theo những điều ti tiện, chi mạt, c̣n sống những kiếp sống sốc nổi, giả tạo.

 

Con người c̣n mê lú, bao lâu chưa nhận ra được chân tướng ḿnh, khi chưa biết gịng dơi cao sang và định mệnh cao cả của ḿnh, khi c̣n là đứa con lăng tử ở trong nhà cha mà chẳng nhận được cha, cam thân làm nô lệ (xem dụ người ‘Cùng từ’ trong Kinh Pháp Hoa Phẩm Tín Giải), khi c̣n là người khách tha phương, khổ sở lao lung, mặc dầu ngay trong tà áo vẫn có viên ngọc qúi (xem dụ ‘Gă nghèo hèn có châu báu trong vạt áo’ ở Diệu Phép Liên Hoa, Phẩm Ngũ Bá đệ tử thọ kư).

 

Con người giác ngộ là con người nhận ra được địa vị cao cả của con người, thấy chân tâm sau lớp vọng tâm, nh́n thấy hằng cửu sau các lớp lang biến ảo.

 

Từ mê đến ngộ tuy cách nhau gang tấc nhưng mà vẫn xa muôn trùng, lúc thấy rồi th́ ngay trước mắt, lúc chẳng nh́n ra th́ cách trở mấy muôn phương.

 

Để con tim khối óc phóng đăng, phiêu lưu ra các tầng lớp bên ngoài, tức là đi vào bến mê, tức là hồng trần, tục lụy. Thu thập tinh thần, hồi quang phản chiếu để khám phá ra các điều vi diệu nội tâm, để t́m ra tuyệt đối chân tâm, tức là căng buồm Bát Nhă thẳng tiến đến bến giác, tức là rời bỏ phù sinh mà đi vào biên cương vĩnh cửu...

 

Sau khi đă hiểu rơ Chân Như, Vạn pháp, Chân tâm, Vọng tâm, sau khi đă hiểu rơ hai phương diện biến hằng của một chân lư vô biên, th́ tất nhiên cũng sẽ hiểu hai vấn đề then chốt khác của Phật giáo là luân hồi và Niết bàn.

 

V́ thực ra, danh hiệu tuy đổi thay, nhưng ṿng luân hồi chẳng qua cũng vẫn chỉ gồm thâu các hiện tượng biến thiên, mà Niết bàn cũng chỉ là Chân Như bản thể. Có khác chăng là luân hồi th́ chẳng những bao hàm ư nghĩa biến thiên mà c̣n gợi ra các cảnh phiền sầu khổ năo, c̣n Niết bàn th́ ngược lại là bản thể, vừa bao hàm ư nghĩa hạnh phúc tuyệt đối vô biên.

 

Luân hồi là ṿng biến dịch, biến thiên của Vạn hữu. Con người sinh ra dĩ nhiên là phải sống trong cảnh biến thiên, ảo hóa ấy. Con người có thể bị biến thiên lôi cuốn đắm ch́m, nhưng con người cũng có thể dùng vạn hữu biến thiên làm công cụ tu luyện để đạt mục đích cao cả của ḿnh: Đó là đạt tới Niết bàn, đạt tới Tuyệt đối.

 

Thường người ta nghĩ luân hồi là thay h́nh đổi xác, hết làm loài này lại sang làm loài khác, cứ như vậy vô cùng, chứ ít người biết rằng luân hồi cũng là thay đổi tâm tư, thay đổi nguyện vọng, thay đổi lối sống, lối nh́n.

 

Bỏ mọi tâm trạng biến thiên, mà vào Chân tâm hằng cửu đó là vào Niết bàn.

 

Cho nên Niết bàn không ở đây ở đó mà đă tàng ẩn ngay trong thâm tâm con người. Nhưng con người cần phải khai thác tâm hồn, cần phải lọc lơi, trừ khử hết mọi bức màn dục vọng, tư tưởng biến thiên bên ngoài, mới có thể thực hiện Niết bàn được.

 

V́ vậy Niết bàn cần được thực hiện trong thâm tâm mỗi một người.

 

Phá bỏ hết mọi vọng niệm, vọng tưởng mới t́m ra được chân lư. Siêu xuất mọi h́nh thức sắc tướng mới thấy được bản thể, cho nên Niết bàn cũng được định nghĩa là Chân lư tối hậu, hay Thực thể trường tồn. Sau hết Niết bàn là hạnh phúc.

 

Giám mục Nathan Soderblom chủ trương rằng Niết bàn là một từ ngữ Phật giáo đă vay mượn nơi Ấn giáo: Nó tương đương với trạng thái huyền đồng, hay đời sống phối kết với Thượng Đế trong Ấn giáo hoặc trong Công giáo. Trong Ấn giáo Nirvana nhiều khi đi đôi với chữ Brahma (La Vie future d’Après le Maz déisme, Paris Ernest Leroux Editeurs, 28 rue Bonaparte 1901, p. 363).

 

Hiểu được siêu h́nh học Phật giáo tức là hiểu được tinh hoa Phật giáo, hiểu được phương pháp tu chứng tối thượng thừa Phật giáo (biệt chú cuối trang của tác giả: “Trong bài này tôi không bàn về Tứ Diệu Đế, Bát Chính Đạo và Thập Nhị nhân duyên, v́ những vấn đề này sách Phật học nào cũng có”).

 

Thực vậy khi đă nhận định rằng chỉ có một bản thể duy nhất bao trùm không gian, thời gian, bao trùm cả Vạn hữu, khi đă chấp nhận rằng bản thể ví như đại dương, hiện tượng và quần sinh ví như muôn ngàn sóng cả, hay những bọt nước bồng bềnh trên mặt ngàn khơi, th́ điều kết luận dĩ nhiên là:

 

-         Bản thể thời trường tồn vĩnh cửu.

-         Hiện tượng thời phù du hư ảo.

-         Con người giác ngộ cần bỏ phù du hư ảo để trở về cùng vĩnh cửu, bỏ hiện tượng để t́m về Bản thể, chân tâm.

 

Phật giáo cho rằng cũng như vũ trụ có hai phương diện biến thiên và hằng cửu. Mỗi một người chúng ta cũng có hai bộ mặt, hai con người. Bộ mặt bên ngoài con người th́ nhem nhuốc, biến thiên, chịu định luật thành, trụ, dị, không của thời gian, bộ mặt bên trong thời uy nghi rực rỡ, siêu thoát trên mọi h́nh thức sắc tướng và không điêu tàn với quang âm, tuế nguyệt.

 

V́ thế Phật giáo mới phân biệt Chân tâm và Vọng tâm, Chân ngă và Vọng ngă.

 

Vọng tâm vọng ngă gồm tất cả những trạng thái biến thiên của tâm hồn, gồm thất t́nh, lục dục, tri giác, cảm giác, hoài băo, lư luận, tư tưởng thiên mà bách triết, sinh sinh diệt diệt với hiện tượng bên ngoài, c̣n chân tâm chân ngă th́ tế vi huyền diệu bất biến trường tồn.

 

T́m ra được rằng dưới lớp vọng tâm c̣n có chân tâm là t́m ra được con người muôn thuở. Khám phá ra được rằng sau những lớp lang tâm tư biến ảo, c̣n có tuyệt đối chân tâm, sau bộ ‘mặt nạ’ tiểu ngă hóa trang c̣n có bộ ‘mặt thực’, c̣n có bộ mặt ‘Bản lai’ đại ngă (Bản Lai diện mục), khám phá ra được rằng dưới làn sóng vô thường vô ngă, mênh mông tràn ngập vũ trụ, tràn ngập ḷng ḿnh, c̣n có giác hải chân như tĩnh lănh ấy là giác ngộ.

 

Nhiều người theo Phật giáo chỉ chú trọng đến vô thường, vô ngă, mà quên mất chân thường, chân ngă, như vậy là mới biết biến thiên chưa biết hằng cửu, mới biết hiện tượng chưa biết bản thể.

 

Biết vô thường, vô ngă là mới biết khổ ải mà chưa biết Niết bàn. Biết hiện tượng mà chưa biết bản thể là hăy c̣n trong ṿng mê lạc.

 

Con người giác ngộ phải thông suốt lẽ biến hằng, thông suốt hai phương diện thể dụng trong trời đất và trong ḷng con người...

 

Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Phật Tử Hội xuất bản, trang 35) viết: ‘Người bỏ mất căn nguyên vĩnh cửu, chân thường, nên bị luân chuyển’ (Thật nhũ nguyên thường, cố thụ luân chuyển)...

 

Chủ trương Phật giáo chính là con người hữu hạn hàm tàng Chân Như vô hạn. Như vậy phương châm và mục đích công cuộc tu luyện cũng được vạch rơ:

 

Tu tŕ cốt là để từ vọng ngă nhỏ hẹp, ta sẽ phát huy Đại Ngă mênh mông; trong sắc thân phàm tục ta sẽ cố phát huy pháp thân siêu việt; trong phàm thân dễ bị hủy hoại, ta sẽ phát huy kim cương thân bất khả tiêu diệt: trong u minh ta sẽ làm bừng sáng lên ngọn đuốc chân tâm.

 

Chữ Diệt Ngă hiểu cho đứng đắn sẽ là diệt trừ mọi h́nh thức sắc tướng, để t́m ra chân tính; làm lu mờ tan biến mọi nhỏ nhen, ti tiện, cho quang minh chính đại hiện ra; mục đích tối hậu là kết hợp với Chân Như tuyệt đối, là ḥa hợp với Bản thể tuyệt đối.

 

Thế là đi từ hữu vi, hữu lậu trở về vô vi vô lậu, rũ bỏ hết mọi phiền trược buộc ràng, mà sống thung dung tự tại, vứt bỏ mọi giả tạm để t́m ra chân thực trường tồn, rũ bỏ tạp thù để giữ nguyên thuần túy, bỏ ngọn ngành chi mạt, để trở về gốc gác căn nguyên.

 

Đạo Nho gọi thế là ‘khử nhân dục, tồn Thiên lư’, Đạo Lăo gọi thế là ‘tâm tử thần hoạt’, thánh Phaolô gọi thế là ‘Tôi sống chẳng phải tôi sống, mà là Chúa sống trong tôi (Galates II, 20)...

 

Mượn ư kinh Kim Cương, và quyển Bồ Đề Đạt Ma huyết mạch luận, ta có thể phác họa phương pháp tu thân minh tâm kiến tính, thành Phật như sau:

 

Hăy rũ bỏ phù vân sắc tướng

(Phàm sở hữu tướng gai thị hư vọng)

Hăy cố t́m vô thượng bồ đề.

Niết bàn muốn rơ nẻo về,

Đừng nên chấp trước đa mê lụy trần.

Con đường giải thoát nội tâm,

Cố suy cố nghĩ cố tầm cho ra

(Tự tâm thị Niết bàn.

Nhược ngôn tâm ngoại hữu Phật,

cầu Bồ đề khả đắc vô hữu thị xứ)

Vọng tâm cố vén mây mù

(Minh tâm kiến tánh.

Nhược bất kiến tánh,

đắc thành Phật đạo,

vô hữu thị xứ)

Băng qua h́nh tướng vào ṭa Như Lai

(Ly nhất thiết chư tướng, tức danh chư Phật)

Nơi vô trụ là nơi an lạc

(Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm)

Pháp vô vi là pháp thánh hiền

(Nhất thiết hiền thánh giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt)

Chớ đừng dính líu sự duyên,

Đừng đem tâm sắc mà phiền Như Lai.

(Nhược dĩ sắc kiến Ngă, dĩ âm thanh cầu ngă,

thị nhân hành tế đạo bất kiến như lai)

Hăy nhớ kỹ h́nh hài sắc tướng,

Đều một tuồng mộng tưởng mau qua,

Đều là bào ảnh quang hoa,

Sương vương ngọn cỏ, chớp ḷa chân mây.

(Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn, bào ảnh, như lộ,

diệc như điện, Ưng tác như thị quán)

Như Lai chẳng ở đây ở đó,

Chẳng đi đâu, chẳng có đến đâu.

(Như Lai giả vô sở ṭng lai, diệc vô sở khứ, có danh Như Lai)

Như Lai ở sẵn ḷng sâu,

Vào sâu tâm khảm mà cầu Như Lai.

 

 

 

(Nguyên phần Mầm Mống Thần Linh nơi Phật Giáo trên đây

được trích từ Những Điểm Tương Đồng giữa Phật, Khổng và Công Giáo,

của Bs Nguyễn Văn Thọ, Công Giáo Tiến Hành Xuân Lộc, 1971, trang 8-20,

cuốn sách được ĐGM Giuse Lê Văn Ấn cho Imprimatur tại Xuân

Lộc ngày 1/4/1971)